THƯ CHO ÔNG SINNETT

Nói về cuốn sách ông Sinnett dự tính viết, đức K.H. gợi ý:
... Bạn hãy nhắm đến việc trưng ra cho thấy Theosophy không phải là điều gì mới làm thế giới chú ý, mà chỉ là việc tái xác nhận các nguyên lý đã được biết tới từ thuở sơ khai của nhân loại.

Ngài cũng xác nhận ý trong thư 14A về việc các vị sáng lập toàn quyền điều khiển hội theo ý mình:
- ... Nếu chúng tôi thành lập và tự mình điều khiển hội, nhiều phần là hội sẽ thành đạt được nhiều hơn và phạm ít sai sót hơn, nhưng chúng tôi không thể làm vậy và kế hoạch cũng không phải như thế; hai đại diện của chúng tôi được giao phó công việc và được để cho thực hiện theo cách hay nhất mà họ có thể làm được, như bạn hiện giờ. Và đã làm được nhiều điều.

HPB xác nhận ý này trong bài viết The Original Programme of the TS:
- Hai vị sáng lập chính không được cho biết phải làm gì, cách thực hiện và khiến hội tăng trưởng mau lẹ và có kết quả mong muốn; họ cũng không được cho ý tưởng rõ rệt nào về cách tổ chức bên ngoài – hoàn toàn họ phải tự mình lo liệu ... Nhưng nếu hai vị sáng lập không được dạy phải làm gì, họ được chỉ dẫn rõ ràng về phải không bao giờ nên làm điều chi.

Thư 15 (tháng 2-1881) trong số PST 63 viết cho ông Sinnett vào lúc ông và gia đình sắp lên tầu về Anh nghỉ phép vài tháng. Ông trở lại Ấn vào đầu tháng bẩy-1881. Như vậy các thư 16 và 17 viết và nhận sau khi ông đã rời Ấn (thư 16) và trong thời gian ở tại Anh (thư 17). Quyển The Occult World của ông Sinnett được xuất bản trong lúc ông ở đây.

Thư 16 – nhận ngày 1-3-1881.
Bức thư ngắn, nhận được tại Tích Lan khi ông Sinnett và gia đình trên đường về Anh, và do ông Olcott trao lại thay vì qua HPB, lý do là tình trạng sức khỏe và tâm thần của HPB khiến bà không được dùng để chuyển thư. Chân sư giải thích:
- ... Tôi sẽ cố hết sức mình để làm dịu xuống người bạn rất đỗi nhậy cảm – và không phải lúc nào cũng hữu lý – của chúng ta ... Thân xác đau ốm và tâm trí bất an khiến bà căng thẳng hết sức, và đáng tiếc là bà hóa ra không được hữu dụng cho chúng tôi.
Sự việc xác nhận lần nữa là có nhiều điều kiện ảnh hưởng việc làm hiện tượng tâm linh, thí dụ hiện tượng sẽ khó tạo hơn khi có ai hoài nghi hiện diện hay người ta không khỏe, trong khi phản ứng hóa học cho ra chất kết tủa sẽ diễn ra y thế trăm lần như một khi hội đủ điều kiện lý, hóa và không tùy thuộc vào sức khỏe hay tâm thần của người làm thí nghiệm. Thế nên công chúng có thể nhận xét sai lầm về việc tạo hiện tượng, do chưa biết những yếu tố can dự để cho phép chúng xẩy ra.

Thư 17 – nhận ngày 26-3-1881.
Có vẻ như đây là bức thư duy nhất mà ông Sinnet nhận được từ Chân sư trong lúc ông ở tại Anh. Bao thư dán tem Pháp nên có suy đoán là thư được viết tại Terich-Mir nơi ngài hiện diện lúc đó, được truyền sang Pháp (cho ai thì ta không biết), và từ đây được gửi theo đường bưu điện thông thường sang Anh.
Terich-Mir là ngọn núi ở điểm cuối của rặng Hindu Kush nằm phần lớn trong Afghanistan và kéo dài sang Pakistan bây giờ, nhưng vào thời điểm của thư (trước khi có phân chia thành hai nước Ấn Độ và Pakistan) vùng này nằm trong Ấn Độ là thuộc địa của Anh.
Thư đề cập đến quyển sách sắp ra của ông Sinnett. Sách thuật lại những hiện tượng mà ông là nhân chứng, và đưa ra kinh nghiệm về việc tiếp xúc với các Vị mà ông gọi là bậc Huynh Trưởng (brother). Trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi chuyện đồng cốt, hiện hình, gợi óc hiếu kỳ cao độ, được các nước tây phương hai bên bờ đại tây dương hào hứng theo dõi, hăng hái tranh luận, đưa ra nhiều lý thuyết để giải thích, sách tâm linh mà tác giả là nhân chứng là điều rất thú vị, bảo đảm được chú ý và đọc rộng rãi. Thư viết:
- Nó là hồi ức ngắn, sống động, có suy xét, và cho ra nhận định về hiện tượng mà chính bạn chứng kiến, hữu ích hơn nhiều so với sách của ông Wallace. Đây là loại con suối mà phải bắt người thông linh học uống cho thỏa lòng khát khao hiện tượng và hiểu biết huyền bí, thay vì để cho họ uống nước ngu ngốc trào ra trong tờ Banners of Light (tạp chí về thông linh học) và những báo khác. Thế giới – có nghĩa đời sống con người – hàm chứa nhiều ý nghĩa ẩn tàng và mục tiêu sâu xa nằm bên dưới tất cả hiện tượng của Vũ trụ, và chỉ có khoa học huyền bí ... mới có thể cho chìa khóa để mở chúng cho trí tuệ. Bạn hãy tin tôi, trong đời vị đạo sư sẽ tới một lúc những khó nhọc mà ngài đã trải qua được trọng thưởng ngàn lần. Để có được hiểu biết thêm, ngài không còn phải dùng cách nghiên cứu và so sánh chậm chạp, chi li những vật khác nhau, mà có được cái nhìn sâu sắc rõ ràng vào từng chân lý đầu tiên ..Nhân vật Huyền môn thấy, cảm và sống nơi chính cội nguồn của những Chân lý căn bản – Tinh chất Tinh thần Đại đồng của Thiên nhiên, SHIVA, đấng Sáng tạo, đấng Hủy diệt và đấng Hồi sinh ... ngài vượt lên trên sự lo lắng, sầu khổ, tội lỗi, phàm tục, là người khất thực, là nhà hiền triết ... nhà Yogi của các Yogi, tội đỉnh của Minh triết Tinh thần ...
... Tôi đã nhọc công trong hơn một phần tư thế kỷ qua để giữ vị trí của mình trong hàng ngũ đội quân vô hình mà luôn bận rộn, làm việc và chuẩn bị cho công cuộc không mang lại phần thưởng nào ngoại trừ ý thức là chúng tôi làm bổn phận của mình đối với nhân loại; và, gặp bạn trên đường tôi tìm cách – đừng sợ – không phải thâu nạp bạn, vì điều ấy bất khả, mà chỉ làm bạn chú ý, gợi lòng hiếu kỳ của bạn nếu không phải là cảm xúc tốt đẹp hơn của bạn về chân lý duy nhất. Bạn đã tỏ ra trung thành và chân thật, và đã làm hết sức mình.
Nếu nỗ lực của bạn dạy được cho thế giới chỉ một chữ trong mẫu tự về Chân lý – cái Chân lý đã có lần thấm nhuần trọn thế giới – phần thưởng sẽ đến với bạn ...
Tái bút:
Bà bạn không may của chúng ta (HPB) đang ốm. Gan, thận, đầu, não, chân, mỗi cơ quan và tứ chi có xáo trộn khiến bà phải lưu tâm và không thể làm ngơ chúng. Một người trong chúng tôi phải 'chỉnh' cho bà, nếu không nó sẽ trở nên tệ hại.

Thư 18 – nhận ngày 5-7-1881.
Thư này đánh dấu khởi đầu có chỉ dạy thực sự từ Chân sư. Ông Sinnett từ Anh về tới Bombay ngày 4-7; sáng ngày 5-7 ông có buổi nói chuyện và cho biết sáng hôm ấy, sau bữa điểm tâm trong lúc ngồi ở bàn sáng trưng giữa ban ngày, ông nhận được một thư của đức K.H. Chuyện được mô tả trong cuốn The Occult World ấn bản thứ hai và trong những ấn bản sau. Ấn bản đầu không có vì chuyện xẩy ra sau khi sách đã phát hành.
Trước khi rời London, ông có viết thư cho Chân sư và khi về đến Bombay không thấy có thư trả lời, ông có hơi thất vọng. Tuy nhiên sáng hôm sau, khi ông và HPB ăn sáng xong, ông ngồi nói chuyện với bà thì có thư. Ông thuật:
- Chúng tôi ngồi ở hai cạnh khác nhau của cái bàn rộng hình vuông ở giữa phòng, trời sáng trưng. Không có ai khác trong phòng. Đột nhiên rơi xuống trên bàn trước mặt tôi bên tay mặt là một thư dầy; bà Blavatsky ngồi bên trái tôi. Nó từ trong không mà có; vật hiện ra, hoặc được tái tụ lại trong không trước mắt tôi. Ấy là thư của ngài K.H. mà tôi đang chờ – một bức thư hết sức lý thú, có phần nói về chuyện riêng và trả lời câu hỏi của tôi, phần khác là vài tiết lộ còn mờ nhạt về triết lý huyền bí, mô tả đầu tiên mà tôi nhận được.
Một phần lớn của thư có tính riêng tư, ghi nhận xét về nhân vật Stainton Moses (1839-1892). Những ngày kế ông Sinnett có hành động thiếu khôn ngoan là chép lại phần này cho ông Moses đọc, sinh ra phản ứng bất lợi về sau. Ta sẽ lướt qua phần đó mà chỉ chú ý vào đoạn dạy về triết lý.
- Các vị đạo sư, theo luật khôn ngoan và không thể vi phạm của chúng tôi, bị cấm hoàn toàn không được chế ngự người khác và một ý chí khác yếu hơn của con người sinh ra vốn được tự do. Khống chế là cách được ưa thích của phe tả đạo, nhưng trong trường hợp ngoại lệ cũng được những vị Hành tinh Thượng đế – Planetary Spirits cao nhất làm, những đấng không còn có thể sai lạc.
Các ngài chỉ xuất hiện trên trái đất vào lúc khởi đầu của mỗi nhân loại mới; vào lúc đầu và cuối của một đại chu kỳ. Và, các ngài ở lại với con người chỉ trong khoảng thời gian cần để cho chân lý muôn thuở mà các ngài chỉ dạy, gây ấn tượng mạnh mẽ lên cái trí mềm dẻo của giống dân mới, để bảo đảm chúng không mất đi, hoặc hoàn toàn quên lãng trong những thời đại, thế hệ về sau. Thiên trách của Vị Hành tinh Thượng Đế là làm vang lên Âm thanh căn bản của Chân Lý. Một khi ngài đã hướng cho làn rung động của điều sau đi trọn đường của nó không bị gián đoạn, dọc theo sự phát triển của giống dân và cho đến cuối chu kỳ, các cư dân của cõi cao nhất biến mất khỏi địa cầu, cho đến khi có giống dân khác tái sinh. Những làn rung động của Chân lý Sơ khai là điều mà các triết gia của bạn gọi là 'ý tưởng bẩm sinh'.
Ta được cho biết đức K.H. đã từng theo học đại học tại Đức. Trong thư này, đoạn sau ghi lại thoáng qua sự kiện ấy:
- Ngày kia tôi nói với G.T. Fechner khi ông muốn biết quan điểm của người Ấn về điều mà ông viết: 'Ông nói đúng ... 'mỗi hạt kim cương, mỗi tinh thể, mỗi cây cỏ và ngôi sao có linh hồn riêng của chúng, bên cạnh thú và người ...' và ' có một đẳng cấp linh hồn từ hình thể vật chất thấp nhất lên tới Đại Hồn World Soul' nhưng ông đã lầm khi thêm vào phần trên lời xác định là 'linh hồn của người quá vãng có liên lạc trực tiếp về mặt tâm linh với linh hồn của người còn sống, vì họ không làm vậy.'
Chỉ riêng vị trí tương đối của những thế giới có người sống trong thái dương hệ của chúng ta cũng đủ ngăn chặn việc có điều này. Vì tôi tin rằng bạn đã bỏ rơi ý tưởng lạ lùng – kết quả tự nhiên của sự dạy dỗ Thiên Chúa giáo lúc nhỏ – rằng có thể có việc người phàm sinh sống ở cõi thuần tinh thần ? Khi ấy bạn sẽ hiểu ngay sai lầm của người Thiên Chúa giáo – nói rằng linh hồn phi vật chất có thể bị hỏa thiêu trong địa ngục vật chất – cũng như là của người thông linh học có giáo dục hơn, tự ru ngủ mình với ý tưởng rằng ngoại trừ dân cư của hai cõi có nối kết trực tiếp với cõi chúng ta, những linh hồn khác có thể liên lạc với họ.
 Dù thanh nhẹ và có thể được tinh lọc khỏi chất trọng trược, linh hồn thanh khiết vẫn bị luật vũ trụ và cõi trần chi phối. Họ không thể liên lạc với chúng ta cho dù vượt qua được hố sâu phân cách cõi của họ với cõi của chúng ta. Linh hồn ta có thể tới gặp họ, nhưng linh hồn họ không thể đi xuống và đến với ta. Họ thu hút, mà không thể bị thu hút, nói thêm thì cực (polarity) có tính tinh thần của họ là khó khăn không thể vượt qua được. (1)
Nhân đây bạn không nên tin tưởng vào bộ Isis Unveiled theo nghĩa đen. Sách chỉ là nỗ lực dè dặt nhằm chuyển sự chú ý của người thông linh học từ thiên kiến của họ sang tình trạng thật của sự việc. Tác giả nói mấp mé và chỉ đường lối đúng, nói lên vật không phải là điều gì, mà không phải vật là điều chi.
Nay đã nói sơ qua đề tài này rồi, tôi sẽ cố gắng giải thích rõ hơn cho bạn sự bất khả nằm ở đâu. Theo cách đó bạn sẽ được trả lời về vị Hành tinh Thượng đế – Planetary Spirit lẫn 'linh hồn - Spirit' thấy trong buổi cầu hồn.

(1) Nói thêm về ý này,  điểm đáng chú ý là bởi con người càng ngày càng mở trí năng nhiều hơn, sự tiếp xúc đúng nghĩa giữa người chết và người sống phải và sẽ ở cõi trí, trước khi linh hồn vào cõi Devachan như thư viết. Vào lúc này khi chưa có liên lạc trực tiếp giữa hai bên, tiếp xúc thường là qua đồng cốt nhìn hoặc nghe ở cõi trung giới bằng thông nhĩ hay thông nhãn (clairaudience, clairvoyance), do đó đầy huyễn tưởng và sai lầm.
Việc liên lạc khi được thực hiện sẽ phá tan hẳn lòng sợ chết, hoặc khi con người có tâm thức liền lạc từ cõi trần sang cõi trí thì cũng sẽ ý thức là không có cái chết. Giai đoạn liên lạc bị cắt đứt hoàn toàn như nói trong thư bắt đầu khi linh hồn vào cõi Devachan, hòa vào chân nhân và ngụ ở đó một thời gian trước khi tái sinh trở lại.
Tới đây ta sẽ dịch rất sơ lược đoạn thư dài, chỉ tóm tắt ý chính trong sách. Cách đọc từ đây tới cuối thư (trang 64 -68 trong sách) nguyên bản Anh văn là nên đặt thư vào bối cảnh lúc bấy giờ, năm 1881. Hội mới được thành lập hơn năm năm, tài liệu TTH chỉ có bộ Isis, từ ngữ chuyên môn thật ít oi, ý niệm về cuộc tiến hóa chưa được phổ cập. Người trong cuộc là Chân sư và hai ông Sinnett, Hume gặp khó khăn rất lớn, phải tìm chữ để nói lên đúng ý mình hoặc để trình bầy, giải thích như việc làm của Chân sư, hoặc để tả thắc mắc như hai ông. Cả ba có phần loay hoay về cách dùng chữ, như ngài viết trong thư 20:
Làm sao tôi có thể giải thích ý tưởng mà bạn chưa có ngôn ngữ cho nó ? Những ai có trí óc sâu sắc và mẫn cảm như bạn, thu nhận được nhiều hơn người khác, và ngay cả khi họ nắm được nhiều hơn, nó lại bị quên mất vì không có chữ  và hình ảnh để trụ lại ý tưởng trôi nổi. Có thể bạn không hiểu tôi đang nói gì. Ngày kia bạn sẽ hiểu nó – Kiên nhẫn.

Vì vậy nếu có đọc nguyên bản tiếng Anh, theo ý riêng bạn không nên trụ vào chi tiết mà nên có cái nhìn tổng quát sẽ hiểu đúng hơn. Ta cũng không nên quá câu nệ vào từ ngữ, thấy cần phải dịch cho chính xác từng chữ một. Thay vào đó, khi nắm được ý chính thì từ ngữ tự nó sẽ giải thích lấy nó, và bạn sẽ thấy không cần có chữ dịch tương đương cho mỗi một từ ngữ Anh văn. Điểm chính là tránh sa lầy vào từ ngữ chưa gọn gàng trong những năm đầu của Hội, và ta sẽ phải dùng trực giác để hiểu mới mong dịch đúng. Kế đó, những chữ 'cõi, cảnh giới, thế giới' dùng trong đoạn này có thể hoán chuyển cho nhau; các chữ 'hành tinh, tinh tú, bầu' cũng vậy.
Chu kỳ của con người bắt đầu ở cõi hay hành tinh cao nhất. Chữ cao nhất ở đây có nghĩa hoàn hảo nhất về mặt tinh thần ... Thế giới tinh tú có sinh vật biết suy nghĩ sinh sống, kể luôn cả trái đất chúng ta, có thể ví như nhiều vòng nối với nhau trong một chuỗi, thế giới này liên kết với thế giới kia, mà tổng thể là một vòng tưởng tượng vô tận. Diễn trình của con người qua hết tất cả tổng thể này, từ điểm đầu tới điểm chấm dứt gặp nhau ở chỗ cao nhất của chu vi, ta gọi là Maha Yug hay Đại Chu Kỳ mà điểm cao nhất của chu vi là tinh thần tuyệt đối, và điểm thấp nhất là vật chất tuyệt đối.
Ta có thể gọi tổng thể này là đại vũ trụ, và các cảnh giới liên kết nhau trên tinh tú là tiểu vũ trụ. Cái sau là bản sao tuyệt hảo của cái trước, và cái trước là mẫu mực cho cái sau. Như vậy, mỗi cảnh giới tới phiên nó cũng có chu kỳ tiến hóa riêng, bắt đầu với bản chất thanh khiết hơn và chấm dứt với bản chất trọng trược nặng phần vật chất hơn. Khi tinh tú đi xuống, mỗi cảnh giới sẽ tự nhiên là càng lúc càng trở nên mờ tối hơn, và ở điểm thấp nhất trở thành vật chất tuyệt đối
 Bị thúc đẩy bởi động lực chu kỳ không thể cưỡng lại, linh hồn phải đi xuống trước khi nó có thể đi lên trở lại. Trên đường đi nó phải trải qua trọn thang tiến hóa, không bỏ sót nấc thang nào, dừng lại ở mỗi thế giới trên tinh tú như một trạm, và ngoài chu kỳ không tránh khỏi của mỗi một thế giới trên tinh tú, nó còn phải đi theo 'chu kỳ sống' riêng của nó, có nghĩa tái sinh nhiều lần trong thế giới này.
Sau khi đi vòng quanh theo chu kỳ, khi linh hồn tiến đến trái đất là một trong những bầu thấp nhất, linh hồn đã mất ở mỗi trạm một ít bản chất thanh bai và mỗi lúc mỗi có thêm tính vật chất, nay tinh thần và vật chất trở thành gần như quân bình với nhau trong con người. Nhưng giờ, họ bắt đầu hành trình trên trái đất và trên đường đi xuống, vật chất không ngừng đè ngạt tinh thần để khi tới điểm thấp nhất trên đường trở về, phần tinh thần khi trước thanh khiết nay thu nhỏ lại thành người sơ khai giữa thiên nhiên cũng sơ khai về mặt địa chất, vì thiên nhiên vật chất bước song đôi với con người sinh lý và tinh thần trong chu kỳ của nó.
Tới điểm này luật vĩ đại bắt đầu việc chọn lọc của nó. Vật chất nào thấy là bị tách biệt hẳn với tinh thần sẽ rớt xuống những cõi thấp hơn nữa thuộc thế giới kim thạch, thảo mộc và thú cầm sơ đẳng; từ đây vật chất – không có linh hồn trong nó – tiến trở về nguồn mẹ. Trong khi đó chân nhân nào được tinh lọc khỏi phần trọng trược của mình có thể theo tiến trình đi lên. Vậy là ở điểm này hàng triệu chân nhân đi chậm bị rớt lại. Nó là giây phút nghiêm trọng của ý 'kẻ thích nghi giỏi nhất được sống còn - survival of the fittest', là sự tiêu tán của kẻ nào không thích nghi. Chỉ có vật chất hay con người vật chất do chính trọng trược của mình bị rơi sâu xuống đáy và lấy hình thể thú vật ở đó, còn kẻ thắng cuộc của diễn trình xuyên qua các thế giới tức chân nhân sẽ đi lên từ ngôi sao này sang ngôi kia, thế giới này sang thế giới nọ, theo vòng tròn đi lên trở lại thành tinh thần thanh khiết như trước của hành tinh, và lên cao nữa để cuối cùng tới khởi điểm ban đầu, rồi từ đây hòa vào sự Huyền Bí. Chưa có đạo sư nào đã bước qua màn vật chất vũ trụ tiên thiên. Tầm nhìn cao nhất, tuyệt hảo nhất bị giới hạn vào vũ trụ hình thể và vật chất. 
Nhưng giải thích của tôi không ngừng nơi đây. Bạn muốn biết vì sao nó dường như khó khăn tột bực nếu không muốn nói là bất khả, để cho linh hồn thanh khiết của người đã khuất liên lạc với người sống qua trung gian đồng cốt. Ấy là do:
a. Bầu không khí chống đối bao quanh mỗi cảnh giới.
b. Các điều kiện tinh thần và sinh lý hoàn toàn khác biệt; và
c. Mỗi chuỗi thế giới mà tôi vừa mô tả cho bạn chẳng những có quỹ đạo xoay vòng quanh nhau epicycloid, mà giống như mỗi hình ellipse có hai thay vì một tiêu điểm, chúng không thể nào tiến lại gần nhau, con người ở tại một tiêu điểm và tinh thần thanh khiết ở tiêu điểm kia.

Ghi chú:
Epicycloid: hệ thống chuyển động gồm nhiều quỹ đạo diễn ra cùng lúc và quanh nhau.
Hình ảnh của sự tiến hóa có thể ví như:
- Trái đất vừa quay quanh trục của mình có chu kỳ là một ngày, và cùng lúc quay quanh mặt trời có chu kỳ là một năm; hoặc:
- Mặt trăng đi quanh trái đất có chu kỳ là 28 ngày, và rồi hệ thống mặt trăng-trái đất lại đi quanh mặt trời có chu kỳ là một năm; mặt trăng vì vậy đi quanh trái đất và đồng thời đi quanh mặt trời. Ta có hai quỹ đạo (mặt trăng, trái đất) chồng lên nhau và lồng vào nhau.
- Phức tạp hơn nữa là tới phiên mặt trời lại xoay quanh một tâm trong ngân hà, nay là ba quỹ đạo (mặt trăng, trái đất, mặt trời) lồng vào nhau v.v.

Bạn có thể phản đối việc ấy còn tôi không thể làm gì hơn, và cũng không thể thay đổi sự kiện, mà lại còn có một trở ngại khác lớn lao hơn. Giống như tràng hạt có những hạt trắng và đen xen kẽ nhau, chuỗi thế giới gồm có những thế giới Nhân và thế giới Quả, cái sau là kết quả trực tiếp của cái trước. Như thế, chuyện hóa hiển nhiên là mỗi bầu Nhân – và trái đất chúng ta là một bầu như thế – không những liên kết với, và được bao quanh bởi, mà thực ra bị phân cách với bầu kế mà giống nó – bầu Nhân khác cao hơn – bằng lớp không khí (theo nghĩa tinh thần) của hệ quả ở sát nó và còn liên kết nhưng không hề hòa lẫn vào bầu kế. Bởi một bầu thì chủ động, bầu kia thụ động, thế giới nhân có dương tính còn thế giới quả có âm tính. Sự đối kháng thụ động này có thể được khắc phục nhưng trong điều kiện mà ngay cả người thông linh học uyên bác nhất cũng không biết chi về nó. Mọi chuyển động đều có tính phân cực.
Tới điểm này thì rất khó mà truyền đạt ý của tôi sang bạn; nhưng tôi sẽ đi tới cuối. Tôi biết không trưng ra được cho bạn những điều đối với chúng tôi là chân lý trong bất cứ hình thức nào khác ngoài trừ định đề luận lý đơn giản nếu được, vì không kể đến các đấng cao nhất, chúng là trưng bầy có tính tuyệt đối và không lưng chừng. Nhưng tôi cho bạn ý để suy gẫm nếu không có gì khác.
Những bầu ở giữa là bóng phóng chiếu ra từ thế giới Nhân, bị chúng làm cho tiêu cực. Chúng là chỗ dừng chân lớn lao, là trạm mà Chân nhân mới mẻ có ngã thức – con cháu tự sinh của những Chân nhân cũ của người đã khuất trên địa cầu chúng ta – được thành hình. Trước khi con chim phượng hoàng sinh ra từ tro của cha mẹ mình, có thể bay bổng lên thế giới tốt hơn, có nét tinh thần nhiều hơn và hoàn thiện hơn – nhưng vẫn là thế giới vật chất – nó phải trải qua diễn trình của việc sinh sản mới; và như trên địa cầu có một số hài nhi chết lúc chào đời hoặc chết yểu, thì thế giới Quả cũng giống vậy. Trên trái đất nó là khiếm khuyết sinh lý và tâm thần, tội lỗi cha ông di lụy tới đời con cháu; trong thế giới của bóng, phôi thai mới và chưa có ý thức của Chân nhân trở thành nạn nhân chính đáng của tội lỗi của cái Ngã khi xưa của nó, chỉ riêng karma – tốt và không tốt – của cái sau dệt nên vận mạng tương lai của nó.
Trong thế giới đó, bạn à, ta thấy những linh hồn vô thức của người ở trong tình trạng chuyển tiếp, khả năng và cá tính của nó nằm yên như con bướm nằm trong kén, vậy mà người thông linh học tin rằng chúng có thể bàn chuyện có lý lẽ ! Thỉnh thoảng khi bị cuốn hút vào xoáy của đường lực bất bình thường nơi người đồng, chúng trở thành âm vang của tư tưởng và ý nghĩ kết tinh lại quanh ai hiện diện. Mỗi trí óc nào tích cực, có đường hướng rõ rệt, có thể làm vô hiệu hóa ảnh hưởng thứ cấp như thể trong chỗ ngồi đồng.
Thế giới bên dưới chúng ta còn tệ hơn nữa. Cái trước ít nhất vô hại, nó bị xáo trộn do đó bị tác động hơn là gây hại; cái sau cho phép giữ lại trọn tâm thức có tính vật chất trăm lần hơn, là thực sự nguy hiểm. Ý tưởng về địa ngục và nơi luyện tội, thiên đàng và phục sinh đều là âm vang họa lại và biến hình của Chân Lý duy nhất tiên khởi, được các Thiên Sứ hay Hành Tinh Thượng Đế nói ở trên dạy cho nhân loại trong thuở ban sơ của các giống dân, mà ký ức con người còn lưu lại mờ nhạt như là thánh nhân với danh hiệu khác nhau là Orisis của Ai Cập, Vishnu, các vị Phật đầu tiên v.v.
Thế giới quả dưới thấp là bầu có tư tưởng cong quẹo như thế, ý niệm và hình ảnh nhục dục nhất; thần thánh được nhân cách hóa, sản phẩm của người tạo ra nó, cái trí nhục dục của ai chưa vượt qua khỏi thú tính trên trần. Khi ta nhớ tư tưởng là vật, có sức níu kéo, mạch lạc, và sự sống, là thực thể có thật, thì những điều khác sẽ trở nên hiển nhiên. Linh hồn người đã khuất – kẻ tạo tác đương nhiên bị thu hút vào sản phẩm và tạo vật của nó; băng băng đâm vào xoáy bão do nó tự tay đào ...
Chúng tôi là những người lặn xuống biển và là nhà tiền phong, và khoa học gia chỉ gặt hái nơi chúng tôi đã gieo. Nhiệm vụ của chúng tôi là lặn xuống biển sâu để đem lên khỏi mặt nước những hạt trân châu của Chân lý, việc của họ là lau chùi và mài dũa thành châu báu khoa học (1). Và nếu họ từ chối không đụng vào vỏ sò méo mó này, khăng khăng rằng không có, không thể có hạt ngọc quí giá nào trong đó thì chúng tôi phải một lần nữa rũ tay hết trách nhiệm đối với nhân loại.
... Vào cuối mỗi chu kỳ phần tinh hoa của nhân loại được mời gọi hợp tác để giúp làm giác ngộ con người còn mê tín dị đoan. Chúng tôi sẽ tiếp tục công việc định kỳ của mình, không để cho bị hoang mang vì nỗ lực giúp đời của mình, cho tới ngày mà nền tảng của tư tưởng mới được dựng vững chắc tới mức không lượng chống đối và ác tâm ngu dốt mà người huynh đệ tả đạo hướng dẫn, có thể thắng thế.
Nhưng cho tới ngày chiến thắng cuối cùng ấy có người phải hy sinh, tuy chúng tôi chỉ chấp nhận ai tự nguyện làm nạn nhân. Việc làm không mong được đáp ơn khiến bà rã rời, thất vọng chán chường, và bị cô lập, nhưng bà sẽ có được phần thưởng trong đời bên kia vì chúng tôi không hề vong ân ...
(còn tiếp)

(1) Hai câu này đáng chú ý vì một số tiết lộ nói rằng các khoa học gia khi sang cõi thanh trong giấc ngủ, được gợi ý về những điều liên quan đến ngành của họ. Họ mang ký ức đó về cõi trần, và nhờ nghiên cứu, tìm tòi thêm đã 'khám phá' hay 'phát minh'  nhiều điều mới lạ.

 

(Xem Thư  cho  Ông  Sinnett  trong mục Sách Dịch)